Một số kháng nguyên bể mặt có tác dụng chống thực bào

    Kháng nguyên vỏ: vỏ của một số vi khuẩn (như phế cầu, Hemophilus influenzae, liên cầu, dịch hạch…) có tác dụng chống lại sự thực bào bằng cách bão hòa sự opsonin hóa nên đã giúp cho vi khuẩn tồn tại và gây bệnh. Nhưng vỏ của một số vi khuẩn đường ruột như Klebsiella và E. coli đã không có tác dụng này. Vi khuẩn dịch hạch có hai protein bề mặt là V và w đã đóng vai trò gây bệnh quan trọng. Hai kháng nguyên này gần như là vỏ của vi khuẩn.


Kháng nguyên


    Kháng nguyên bề mặt: vi khuẩn thương hàn có kháng nguyên Vi (viết tắt chữ virulence) là yếu tố chống thực bào, giúp cho vi khuẩn thương hàn phát triển bên trong tế bào bạch cầu. Vi khuẩn lao có cấu trúc lớp vách đặc biệt (bao gồm nhiều yếu tố sợi và sáp), tạo nên sự đề kháng cao với thực bào. Do vậy vi khuẩn lao có thể sinh sản trong các tế bào thực bào và gầy bệnh.

    Các phản ứng quá mẫn (hypersensitivity)

    Quá mẫn là những phản ứng miễn dịch có hại cho cơ thể. Trước đây người ta cho rằng miễn dịch chống nhiễm trùng là những phản ứng bảo vệ cơ thể. Nhưng gần đây, người ta khẳng định rằng phản ứng quá mẫn là cơ chế bệnh sinh của một số bệnh nhiễm trùng. Các vi khuẩn đường ruột gây bệnh bằng nội độc tố theo cơ chế Arthus. Virus sốt xuất huyết gây xuất huyết bằng phức hợp miễn dịch… Ngày nay, quá mẫn trong nhiễm trùng được cho là do một số lymphokin (TNF, IL6…) gây nên shock nhiễm trùng, điển hình là shock do nội độc tố.

    Độc lực của virus

    Độc lực của virus là tập hợp của nhiều yếu tố giúp cho vius nhân lên nhanh và gây tổn hại tế bào. Cũng giống như với vi khuẩn, độc lực của virus bao gồm các yếu tốbám, xâm nhập và nhân lên gây huỷ hoại tế bào dẫn đến biểu hiện của các bệnh nhiễm virus. Ngoài ra, virus gây bệnh là do tổn hại tế bào do virus bám và trong quá trình nhân lên của nó, nên độc lực của VR còn bao gồm các yếu tô sau:    *

    Virus bám trên màng tế bào cảm thụ, làm ảnh hưởng đến chức năng của màng này và đã gây ra sự suy thoái chức năng tế bào. Tuy tế bào chưa thoái hóa, nhưng chức năng không còn như cũ. Vấn đề này đã được chứng minh ở các tế bào TCD4 bị nhiễm HIV.

    Virus ngăn cản sự sinh tổng hợp các đại phân tử của tế bào để phục vụ cho sự nhân lên của nó.

    Virus làm thay đổi tính thấm của lysosom tế bào và có thể dẫn tới sự giải phóng các enzym.

    Các tiểu thể của virus trong tế bào đã phá hủy cấu trúc và chức năng tế bào, gây chết tế bào.

    Virus gây ra biến dạng nhiễm sắc thể.

    Virus gây ung bướu, gây ra chuyển dạng tế bào, gây loạn sản tế bào do mất sự kiểm soát kháng nguyên bề mặt.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật là gì, các loại kháng sinh

Một số enzym ngoại bào

   Vi khuẩn có hai loại enzym ngoại bào. Một loại dùng cho phân cắt các phân tử có trọng lượng lớn để giúp cho vi khuẩn có thể hấp thu được. Loại khác là những enzym ngoại bào có vai trò độc lực và có liên quan đến khả năng gây bệnh. Nhưng bản thân chúng rất ít độc tính. Vai trò gây bệnh được biết rõ với hyaluronidase, còn các loại khác chưa được chứng minh đầy đủ.

    Hyaluronidase: enzym này được coi là yếu tố xâm nhập. Nó phân hủy acid hyaluronic của tổ chức liên kết để cho vi khuẩn xâm nhập sâu hơn vào mô. Nhiều vi khuẩn Gram dương sản xuất enzym này. Với vi khuẩn hoại thư (C. perfringens) khi dùng kháng thể chông enzym này thì nó không thể lan rộng được.

Hyaluronidase


    Coagulase: enzym này có ở tụ cầu vàng và một số vi khuẩn khác. Nó hoạt hóa plasma của máu biến thành fibrin lắng đọng xung quanh vi khuẩn và những nơi tổn thương do vi khuẩn gây ra. Nhờ vậy đã ngăn cản được thực bào và tác dụng của kháng thể và kháng sinh.

    Coagulase dương tính để phân biệt tụ cầu vàng và tụ cầu da

    Fibrinolysin (còn gọi streptokinase): tụ cầu vàng và liên cầu có sản xuất enzym này. Nó hoạt hóa plasminogen thành plasmin dẫn tối làm tan tơ huyết. Do vậy đã làm tăng sự lan tràn của vi khuẩn.

    Hemolysin: nhiều vi khuẩn Gram dương và âm có enzym này. Ở vi khuẩn Gram âm, plasmid mang thông tin di truyền cho enzym này. Nó có ý nghĩa trong chẩn đoán vi sinh vật. Streptolysin của vi khuẩn liên cầu thuộc loại này. Hiệu giá kháng thể kháng streptolyzin 0 (được xác định bằng phản ứng ASLO) là một tiêu chuẩn dùng để chẩn đoán thấp và viêm cầu thận bán cấp.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vat, cac loai thuoc khang sinh

Những chất độc của vi sinh vật để gây bệnh

    Ngược lại với sự chui vào trong tế bào chủ của các vi khuẩn đã nêu trên, các vi khuẩn gây bệnh bằng ngoại độc tố như vi khuẩn tả, vi khuẩn ho gà, ETEC (Enterotoxigenic E. coli) đã không xâm nhập vào tế bào. Chúng làm tổn hại màng tế bào, sinh sản trên màng nhầy niêm mạc, sản xuất và tiết ra ngoại độc tố, các ngoại độc tố này thấm vào các tế bào và gây ra những tác dụng đặc hiệu nghiêm trọng cho cơ thể.

    Khả năng sinh sản trong tế bào góp phần tạo nên độc lực cho vi sinh vật. Hình như là khả năng sinh sản này được xác định bởi nhu cầu dinh dưỡng và sự thích ứng với môi trường của vi khuẩn để phục vụ cho dinh dưỡng. Ví dụ Chlamydia psittaciký sinh nội bào bắt buộc đã cạnh tranh với tế bào chủ về isoleucin ở trong tế bào, khi acid amino này quá ít, vi khuẩn không thể sinh sản. Cũng tương tự, các vi sinh vật yêu cầu ion kim loại cho sự thay đổi của các hoạt động sinh lý, nhu cầu ion kim loại là đặc biệt quan trọng.

Độc tố

vi sinh vật


    Độc tố là những chất độc của vi sinh vật để gây bệnh. Nó gồm 2 loại là nội và ngoại độc tố.

    Nội độc tố là những chất độc gắn ở vách vi khuẩn Gram âm, bản chất hóa học là lipopolysaecharid (LPS), thường có ở các vi khuẩn Gram âm như

    Salmonella, Shigella… Nội độc tố chịu được nhiệt độ sôi và không bị phân huỷ bởi protease; tính kháng nguyên yếu và không sản xuất được thành vacxin.

    Ngoại độc tố là những chất độc do vi khuẩn tiết ra môi trường; bản chất hóa học là protein nên không chịu được nhiệt độ sôi và protease; tính kháng nguyên tốt và có thể sản xuất thành vacxin; có độc lực rất cao (cao hơn nội độc tố). Ngoại độc tốcó thể do cả vi khuẩn Gram dương (bạch hầu, uốnván, hoại thư) và vi khuẩn Gram âm ( ho gà, tả, ETEC của E. coli) tạo ra.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, các loại thuốc kháng sinh

Sự xâm nhập và sinh sản của vi sinh vật

    Một ví dụ rất điển hình của sự bám đặc hiệu vi khuẩn vào tế bào là ở Streptococcus salivarius, nó định cư chủ yếu ở lưỡi và rất ít ở bề mặt răng; còn Streptococcus pyogenes thì định cư chủ yếu ố họng miệng và là tác nhân chính gây viêm họng. Các thành phần bề mặt của vi khuẩn tham gia bám đặc hiệu là:

    Pili: thường có ở các vi khuẩn Gram âm, nó là các sợi lông bé và ngắn. Một số trong loại này có chức năng bám, nhờ vào các chuỗi amino acid đặc hiệu bám trên bề mặt các tế bào eucaryote, procaryote, ví dụ vi khuẩn lậu và nhiều vi khuẩn đường tiêu hóa.

    Fimbriae: loại này có hình dạng như pili, nhưng bé hơn. Thường có ở vi khuẩn Gram dương (như S.pyogenes) và có thể ở một số VK Gram âm. Chúng tham gia vào việc bám vào bề mặt tế bào.

Fimbriae


    Polysaccharid bề mặt: ở một số chủng vi khuẩn đường ruột nhất định, đặc biệt là s. mutantchất glucan không hòa tan trong nước, bám xung quanh tế bào và bám dính vào bề mặt răng, gây nên sâu răng.

    Các phân tử (cấu trúc) bám khác: ở một số loại vi khuẩn, đặc biệt là ở mycoplasma và một số xoắn khuẩn, hình như để bám vào tế bào biểu mô bởiphần cuối của vùng màng đặc biệt. Mycoplasma không có vách tê bào, nó đã bám bởi protein bề mặt của màng vi khuẩn vào acid sialic của receptor tế bào chủ.

Yếu tố bám và độc lực:

    Rõ ràng rằng sự bám là một yếu tố tạo nên khả năng của vi sinh vật gây nhiễm trùng tế bào chủ và là một yếu tố độc lực. Tuy nhiên không hoàn toàn như vậy, vì một số vi khuẩn không có độc lực vẫn có khả năng bám và ngược lại một số vi khuẩn độc lực, yếu tố bám không tương quan với độc lực. Người ta không ngạc nhiên, bởi vì độc lực là tập hợp của nhiều yếu tố và yếu tố bám chỉ là một điều kiện đầu tiên cho cả vi sinh vật gây bệnh và vi sinh vật ký sinh. Và do có vấn đề này nên các vi sinh vật ký sinh đã góp phần cạnh tranh với vi sinh vật độc lực về receptor tế bào, góp phần bảo vệ cơ thế.

Sự xâm nhập và sinh sản của vi sinh vật

    Xâm nhập và sinh sản là các yếu tố quyết định của sự nhiễm trùng. Vì không có sự xâm nhập và sinh sản thì không có nhiễm trùng. Virus và các vi khuẩn ký sinh nội bào bắt buộc thì chỉ gây bệnh được khi sinh sản bên trong tê bào. Còn nhiều vi khuẩn, dù không ký sinh nội bào bắt buộc, nhưng đê gây nhiễm trùng chúng cũng phải xâm nhập vào mô. Salmonellabắt đầu sự xâm nhập bằng cách dính chặt vào diềm bàn chải ruột và các vi nhung mao bắt đầu thoái hóa. Khi vi khuẩn này xâm nhập vào tế bào, sự thoái hóa xẩy ra nhiều hơn và tạo thành những không bào chứa đựng một hoặc nhiều vi khuẩn.


Đọc thêm tại:

Độc lực của vi sinh vật và đơn vị đo độc lực

   Bệnh nhiễm trùng mạn tính: bệnh kéo dài, triệu chứng không dữ dội. Loại nhiễm trùng này do các vi sinh vật ký sinh bên trong tế bào (như bệnh lao, phong, giang mai…).

    Nhiễm trùng thể ẩn: người bị nhiễm trùng không có dấu hiệu lâm sàng. Người ta thường không tìm thấy vi sinh vật gây bệnh trong bệnh phẩm, nhưng có thể có những thay đổi về công thức máu. Nhiễm trùng thể ẩn gặp nhiều hơn các bệnh nhiễm trùng. Hình thái nhiễm trùng này không nguy hiểm cho bệnh nhân, nhưng nó có thể là nguồn lây bệnh.

    Nhiễm trùng tiềm tàng:vsv gây bệnh tồn tại ở một số cơ quan nào đó của cơ thể. Một ví dụ khá điển hình là trong thời niên thiếu, gần 100% trẻ em bị thuỷ đậu do virus Herpes. Tuy thuỷ đậu đã khởi nhưng virus này vẫn cư trú ở hạch thần kinh giao cảm, khi bị suy giảm miễn dịch (như bị HIV/AIDS…) thuỷ đậu-Zona lại xuất hiện.

    Nhiễm trùng chậm: loại nhiễm trùng này là do một số virus. Thời gian ủ bệnh của chúng thường rất dài. Điển hình là nhóm Lentivirus mà thành viên tiêu biểu là HIV, thời gian ủ bệnh kéo dài 7-10 năm.

    Các mức độ của sự nhiễm trùng trên phụ thuộc vào sự tương quan giữa khả năng gây bệnh, số lượng của vi sinh vật và đường xâm nhập của chúng vào cơ thể, đối lại với khả năng đề kháng của cơ thể.

ĐỘC LỰC CỦA VI SINH VẬT VÀ ĐƠN VỊ ĐO ĐỘC LỰC

ĐỘC LỰC CỦA VI SINH VẬT


    Độc lực (virulence) là mức độ của khả năng gây bệnh của vi sinh vật.

    Khi nói tới độc lực của vsv phải đề cập tới đối tượng cụ thể mà vi sinh vật đó gây bệnh. Nhiều vi sinh vật chỉ gây bệnh cho một loại động, thực vật nào đó. Đa số các vi sinh vật gây bệnh cho người không gây bệnh cho động vật và ngược lại. Tuy nhiên, cũng có một vài vi sinh vật gây bệnh cho cả hai (ví dụ như các vi khuẩn: dịch hạch, than, Brucella…)nhưng mức độ nặng nhẹ không giống nhau.

    Để đo độc lực người ta thường dùng một số đơn vị, như MLD (minimal lethal dose-liều chết tối thiểu) và LD50 (50 percent lethal dose – liều chết 50%). Hai loại đơn vị này được định nghĩa cụ thể cho từng loại vi sinh vật hoặc độc tô của chúng.

CÁC YẾU TỐ ĐỘC LỰC CỦA VSV 

    Sự bám (adherence) vào tế bào: bám vào tếbào là điều kiện đầu tiên để vsv có thể xâm nhập vào mô và gây nhiễm trùng. Sự bám (hay là sự hấp phụ) trên bề mặt tế bào cảm thụ đặc hiệu của virus đã được biết đến từ rất lâu và đây là bước đầu tiên của sự nhân lên virus trong tế bào.

    Ngược lại vi khuẩn được phát hiện trước virus hơn một thế kỷ, nhưng sự bám của chúng mới được nghiên cứu vài thập kỷ vừa qua.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, các nhóm kháng sinh

Định nghĩa và một số hình thái của nhiễm trùng

    Hiện nay bệnh nhiễm trùng đang là vấn đề nổi cộm của y tế thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển. Bên cạnh những bệnh nhiễm trùng có từ trước đây như các bệnh dịch tả, dịch hạch thương hàn, lỵ, sốt xuất huyết, sốt rét, viêm gan… gần đây còn xuất hiện thêm một số bệnh nhiễm trùng mói như HIV/AIDS, Êbola, SARS.


nhiêm trùng


     Ở Việt Nam, hàng năm, 1/3 tổng số bệnh nhân vào bệnh viện là do bị nhiễm trùng. Đây là nguyên nhân gây tử vong cho nhiều trẻ em và người già. Có nhiều loại bệnh nhiễm trùng, nhưng thường gặp nhất là các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp, tiêu chảy, viêm đường tiết niệu và nhiễm khuẩn máu…Hiểu được các yếu tố gây nhiễm trùng của các vi sinh vật là cần thiết để có thể phòng chông các bệnh nhiễm vi sinh vật có hiệu quả.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM

Định nghĩa về nhiễm trùng

    Nhiễm trùng là sự xâm nhập và sinh sản trong mô của các vsv gây bệnh dẫn tới sự xuất hiện hoặc không xuất hiện bệnh nhiễm trùng.

    Khái niệm trên khẳng định chỉ có sự xâm nhập và sinh sản của vi sinh vật ở trong các mô của cơ thể mới được coi là bị nhiễm trùng. Khái niệm này đã phân biệt được sự nhiễm trùng và ký sinh của vi sinh vật ở cơ thể.

    Những vi sinh vật ký sinh trong cơ thể nhưng không xâm nhập vào mô thì không gọi là nhiễm trùng. Trong số những vi sinh vật ký sinh này, phần lớn là không gây bệnh, nhưng khi gặp điều kiện sống thuận lợi (như sự đề kháng của cơ thể suy giảm ví dụ trong bệnh ẤlDS) chúng có thể gây bệnh.

    Chúng được gọi là vi sinh vật gây bệnh cơ hội. Nhiễm trùng cơ hội gặp không ít trong bệnh viện, với các bệnh nhân và nhân viên y tế, nhưng chủ yếu với bệnh nhân, vì khả năng đề kháng của họ suy yếu. Một số vi sinh vật ký sinh này cần thiết cho cơ thể, người ta gọi chúng là các vsv cộng sinh.

Các hình thái nhiễm trùng

    Tuỳ vào mức độ nhiễm trùng, người ta thành các hình thái sau đây:

    Bệnh nhiễm trùng: vi sinh vật gây ra các rối loạn cơ chế điều hòa của cơ thể, dẫn đến xuất hiện các dấu hiệu nhiễm trùng rõ rệt (như sốt, đau) và tìm thấy các vi sinh vật gây bệnh trong các bệnh phẩm.

Bệnh nhiễm trùng lại chia thành 2 loại:

    Bệnh nhiễm trùng cấp tính: triệu chứng bệnh rõ rệt và thường bệnh tồn tại trong một thời gian ngắn, sau đó bệnh nhân khởi hoặc tử vong.


Đọc thêm tại : http://visinhvathoc.blogspot.com/2015/05/phan-loai-va-ung-dung-cua-phage.html

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi khuẩn là gì, các thuốc kháng sinh

Phân loại và ứng dụng của Phage

PHÂN LOẠI PHAGE

    Phage được chia thành 2 loại: Phage độc lực và phage ôn hòa.

PHAGE


Phage độc lực

    Phage độc lực là loại phage khi xâm nhập vào tế bào vi khuẩn thì chúng có khả năng nhân lên và phá hủy tế bào vi khuẩn đó.

Phage ôn hoà

    Phage ôn hòa còn được gọi là tiền phage hay prophage, loại phage này khi xâm nhập vào vi khuẩn thì acid nucleic của nó gắn vào genom của vi khuẩn, tồn tại và phân chia cùng genom của vi khuẩn qua nhiều thế hệ. Khi gặp điều kiện thích hợp thì acid nucleic của phage được hoạt hóa, chỉ huy toàn bộ quá trình nhân lên, tạo ra các phage mới và gây tổn hại cho tế bào vi khuẩn như phage độc lực. Những vi khuẩn mang phage ôn hoà gọi là vi khuẩn tiềm tan hay tế bào sinh dung giải. Gen của prophage có thể tạo ra một số thay đổi đặc tính của vi khuẩn như tạo ra ngoại độc tố (vi khuẩn bạch hầu, liên cầu).

ỨNG DỤNG CỦA PHAGE

Chẩn đoán và phân loại vi khuẩn

    Mỗi loại vi khuẩn có một loại phage tương ứng gây bệnh hay nói cách khác phage có tính đặc hiệu đối với vi khuẩn. Trong chẩn đoán và phân loại một số vi khuẩn như vi khuẩn dịch hạch, tụ cầu… người ta dùng phage đã biết tên trước cho tiếp xúc với vi khuẩn đang cần xác định, nếu đặc hiệu (cùng tên) thì tê bào vi khuẩn sẽ bị phage gây bệnh làm phá hủy tế bào vi khuẩn đó. Đây là cách chẩn đoán, phân loại nhanh và đặc hiệu cao.

Làm mẫu để nghiên cứu về sinh học phân tử

    Trong sinh học phân tử, đặc biệt là trong di truyền vi khuẩn, người ta đã dùng phage ôn hòa để nghiên cứu về sự tải nạp (transduction) của vi khuẩn. Tải nạp là quá trình vận chuyển chất liệu di truyền từ vi khuẩn cho sang vi khuẩn nhận thông qua phage. Đây cũng là kỹ thuật được sử dụng nhiều trong công nghệ sinh học.

Phòng và điều trị bệnh do vi khuẩn

    Trong một số bệnh do vi khuẩn gây ra, ví dụ như bệnh lỵ, người ta đã cho bệnh nhân uống phage đặc hiệu của vi khuẩn có nguy cơ gây bệnh hoặc đang gây bệnh để phòng và điều trị. Phương pháp này có hiệu quả cao nhưng khó thực hiện và tốn kém.

Phát hiện phóng xạ

   Những tế bào vi khuẩn tiềm tan thườngbị ly giải khi có tác dụng của chất phóng xạ, bởi vậy người ta dùng những tế bào tiềm tan đó cho tiếp xúc với môi trường hoặc những chất nghi bị nhiễm phóng xạ, nêu tế bào vi khuẩn bị ly giải có nghĩa là môi trường hoặc những chất đó đã bị nhiễmphóng xạ.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật là gì, các loại kháng sinh

Định nghĩa và đặc điểm sinh học của BACTERIOPHAGE

Bacteriophage được Twort phát hiện năm 1915.


Bacteriophage


ĐỊNH NGHĨA

    Bacteriophage là virus mà tế bào cảm thụ là vi khuẩn, nghĩa là nó có khả năng gây bệnh cho vi khuẩn, do đó người ta còn gọi bacteriophage là virus của vi khuẩn và thường gọi tắt là phage.

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA PHAGE

Cấu trúc

    Phage là loại virus có cấu trúc hỗn hợp, nó vừa có cấu trúc hình khối (đầu), vừa có cấu trúc hình xoắn (đuôi). Phage có 3 phần


Đầu

    Đầu phage có cấu trúc hình khối, hình thái như cái hộp lục lăng được hợp bởi nhiều capsomer, bên trong chứa acid nucleic, hầu hết các phage chứa ADN còn lại rất ít phage chứa AEN. Acid nucleic ở đầu phage là một sợi rất dài được sắp xếp rất gọn và tối ưu nhất. Acid nucleic chiếm tối 40% toàn bộ trọng lượng của phage. Đầu phage có đường kính 65 nm và chiều dài khoảng 95 nm.

Đuôi

    Đuôi có cấu trúc dạng hình xoắn, có độ dài 95 nm nốiliền với một đỉnh của đầu. Đuôi này được hợp bởi 2 ống hình trụ lồng vào nhau: ống bên trong cứng có đường kính 8 nm thông với khoang đầu, ống bên ngoài hình xoắn có đường kính 20 nm co giãn được theo chiều dọc như cái lò xo. Phía CUỐI đuôi là một tấm lông đuôi 6 cạnh đều nhau có đường kính khoảng 35 nm.

Lông đuôi

    Phage có 6 lông đuôi, mỗi lông đuôi có độ dài 150 nm được gắn vào mỗi đỉnh của tấm cuối đuôi. Lông đuôi giúp cho phage bám vào được tế bào vi khuẩn.

Sự nhân lên của phage

    Phage là virus do đó nó cũng nhân lên theo quy luật chung của virus. Trong một hoàn cảnh nhất định nào đấy, phage cố định vào receptor của vách tế bào bằng những sợi lông đuôi của nó. Mỗi loại phage chỉ có thể cố định vào được một loại vi khuẩn vì phage có tính chất đặc hiệu tuyệt  đối với vi khuẩn.

    Sau khi bám vào được tế bào vi khuẩn, phage đã dùng lysozym có ở cuốiđuôi phá hủy màng tế bào tạo thành lỗ thủng. Ống cứng bên trong của đuôi được xuyên vào bào tương của vi khuẩn nhờ sự co lại của ống bên ngoài đuôi. Ngay sau đó, acid nucleic ở đầu phage được bơm vào bên trong tế bào vi khuẩn. Vỏ của phage ở lại bên ngoài rồi tự tiêu hủy.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vat, cac loai thuoc khang sinh

Một số loại virus thường gặp

Đặc điểm chủ yếu:

+ Chứa ADN 2 sợi

+ Capsìd đôi xứng khối 20 mặt + Không có vỏ bao ngoài + Kích thuốc 45 – 55 nm.

    Thành viên chính: Papilloma (gần đây virus này được coi là căn nguyên chính gây ra ung thư cổ tử cung), Polioma, Vacuolating virus

Một số loại virus thường gặp


Parvoviridae

    Đây là họ virus chứa ADN sợi đơn, có capsid đối xứng khối hình thành từ 32 capsomers, là virus cỡ nhở với đường kính từ 18 – 28 nm. Virus họ Parvoviridae chưa được nghiên cứu nhiều, chúng là căn nguyên gây sốt phát ban đở ở trẻ em.

Reoviridae

    Thành viên chủ yếu gây bệnh của họ Reoviridae là Rotavirus với 4 týp huyết thanh (serotype) khác nhau. Ngoài ra còn có Orbivirus gây bệnh cho người, động vật và cây cở.

    Vỏ capsid hai lốp, virus hình tròn, kích thưóc khoảng 65 nm, gây bệnh ỉa chảy chủ yếu ở trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Thành viên chủ yếu: Rotavừus.

Togaviridae

    Họ Togaviridae có 3 nhóm chính: Alphavirus, Rubivirus và Pestvirus. Đặc điểm chính:

    Chứa ARN sợi đơn, capsid đối xứng xoắn, có bao ngoài, đường kính từ 50 – 70 nm.

    Thành viên gây bệnh chính cho người với nhiều tai biến là: Rubella virus.

Flaviviridae

    Là nhóm virus gây bệnh lây lan qua côn trùng tiết túc.

Đặc điểm chung: chứa ARN sợi đơn, capsid được bao bọc bởi bao ngoài, đường kính khoảng 45 nm.

   Thành viên gây bệnh chính: virus sốt xuất huyết Dengue, virus gây viêm não.

Vai trò lâm sàng của sự để kháng

    Phối hợp giữa sự xuất hiện cùng nhiều khả năng lan truyền gen để kháng và chọn lọc vi khuẩn đề kháng như đã nêu ở trên, số lượng và mức độ vi khuẩn kháng kháng sinh trong cộng đồng ngày càng gia tăng.

Cơ chế đề kháng

Cơ chế đề kháng


    Gen đề kháng tạo ra sự đề kháng bằng cách:

-Làm giảm tính thấm của màng nguyên tương, ví dụ kháng tetracyclin, oxacillin; gen đề kháng tạo ra một protein đưa ra màng, ngăn cản kháng sinh thấm vào tế bào; hoặc làm mất khả năng vận chuyển qua màng do cản trở protein mang (carrier protein) và kháng sinh không được đưa vào trong tế bào.

-Làm thay đổi đích tác động: do một protein cấu trúc hoặc do một nucleotid trên tiểu phần 30S hoặc 50S của ribosom bị thay đổi nên kháng sinh không bám được vào đích (ví dụ, streptomycin, erythromycin) và vì vậy không phát huy được tác dụng.

-Tạo ra các isoenzym không có ái lực với kháng sinh nữa nên bỏ qua (không chịu) tác động của kháng sinh, ví dụ kháng sulfamid và trimethoprim.

-Tạo ra enzym: các enzym do gen đề kháng tạo ra có thể:

    Biến đổi cấu trúc hóa học của phân tử kháng sinh làm kháng sinh mất tác dụng ví dụ acetyl hóa hoặc phospho hóa hay adenyl hóa các aminozid hoặc chloramphenicol.

     Phá huỷ cấu trúc hóa học của phân tử kháng sinh, ví dụ beta-lactamase làm cho các kháng sinh nhóm beta-lactam mất tác dụng.

     Một vi khuẩn kháng kháng sinh thường là do phối hợp các cơ chế riêng rẽ kể trên, ví dụ trực khuẩn Gram âm kháng beta lactam là do beta lactamase cộng với giảm khả năng gắn PBPs (penicillin binding protein = protein gắn penicillin) và giảm tính thấm của màng sinh chất.

Cơ chế lan truyền gen để kháng và vi khuẩn để kháng

     Một vi khuẩn có gen đề kháng, gen đó sẽ được truyền dọc (vertical) qua các thế hệ trong quá trình nhân lên (phân chia) của tế bào (ví dụ đời ông sang cha, cha sang đời con, con sang đòi cháu); ngoài ra, thông qua các hình thức vận chuyển di truyền, gen đề kháng có thể được truyền ngang (horizontal) từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác.

Xét về mặt dịch tễ học, gen đề kháng và vi khuẩn đề kháng có thể được lan truyền trên bốn phương diện khác nhau, đó là:

-Trong tế bào (intracellular)

   Thông qua biến cố tái tổ hợp hoặc chuyển vị trí của transposon gen đề kháng có thể truyền từ phân tử ADN này sang phân tử ADN khác ngay trong một tế bào.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, các nhóm kháng sinh

Biện pháp xác định virus và phát hiện bệnh

    Tế bào thường trực, cũng có nguồn gốc từ mô động vật hay thực vật, côn trùng được cấy truyền qua nhiều thế hệ trong phòng thí nghiệm mà không gây thay đổi mọi đặc điểm di truyền cũng như tính cảm thụ với virus. Các tế bào thường trực hiện hay dùng: Vero, Hep 2, C6/36, Hela…


xác định virus


 Gây bệnh thực nghiêm trên đông vật

    Có thể gây bệnh cho chuột nhắt mới sinh, cho khỉ, cho bào thai gà, cho muỗi… Để xác định tên virus, người ta cũng dùng kháng thể mẫu để làm các phản ứng đặc hiệu xác định kháng nguyên.

 Xác định virus

    Sau khi đã nuôi cấy virus trên các tế bào hoặc trong động vật thí nghiệm, các virus nghi ngờđược xác định bằng các kỹ thuật miễn dịch thích hợp.Chẩn đoán gián tiếp (phương pháp huyết thanh học  serology)

Lấy bệnh phẩm

    Để tìm kháng thể có trong huyết thanh bệnh nhân, cần phải lấy máubệnh nhân hai lần, không có chất chống đông. Máu được để đông cho huyết thanh tiết ra rồi chắt lấy để làm phản ứng. Thời gian lấy máu: lần thứ nhất sau 3, 4 ngày từ khi bệnh khởi phát; lần thứ 2 cách lần đầu 10 ngày tới 2 tuần. Huyết thanh 2 lần được bảo quản ở -20°c để làm phản ứng trong cùng thời gian.

   Các phản ứng huyết thanh tìm kháng thể


  1. Phản ứng ELISA tìm IgM để chẩn đoán nhanh. Hiện nay thường được sử dụng để chẩn đoán nhiễm trùng giai đoạn sớm.

  2. Phản ứng ELISA tìm IgG.

  3. Phản ứng trung hòa.

  4. Phản ứng kết hợp bổ thể.

  5. Phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu.

  6. Phản ứng Western blot.

Nhận định kết quả

    Các phản ứng ELISA và Western blot được đánh giá là dương tính (+) theo quy định của các kít mẫu thử.

    Các phản ứng định lượng khác, hiệu giá huyết thanh trong mẫu lần 2 phải tăng gấp 4 lần so với mẫu máu lần 1 mói kết luận là bệnh nhân mắc bệnh.

Các phương pháp phát hiện virus khác

    Các kỹ thuật phân lập và huyết thanh học tốn kém thời gian hoặc kinh phí, nên hiện nay các phương pháp phát hiện virus trực tiếp từ bệnh phẩm bằng các kỹ thuật miễn dịch (huỳnh quang trực tiếp, ELISA, ngưng kết gián tiếp), hoặc di truyền (PCR) được sử dụng rất có hiệu quả.

    Cắt cúp để tìm mô bệnh học đặc hiệu, cũng có thể phát hiện sự có mặt của virus.

    Người ta có thể thấy cấu trúc đặc hiệu của virus khi bệnh phẩm được quan sát dưới kính hiển vi điện tử.

PHÒNG BỆNH

Phòng không đặc hiệu

    Các biện pháp cách ly bệnh nhân, khử trùng tiệt trùng dụng cụ và môitrường, diệt côn trùng truyền bệnh được áp dụng thích hợp trong từng bệnh,từng vụ dịch.Mỗi lứa tuổi, các nghề nghiệp khác nhau có thể sử dụng các loại vacxin thích hợp.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vat, cac loai thuoc khang sinh

Biện pháp điều trị bệnh do virus gây ra

Các vacxin hiện dùng:

Vacxin sống giảm độc: vacxin phòng bại liệt, sởi, dại, đậu mùa.

Vacxin tái tổ hợp: vacxin viêm gan.

Vacxin chết: dại, viêm não.


Vacxin


ĐIỂU TRỊ BỆNH

    Một số bệnh cấp tính: có thể nguy hại đến tính mạng bệnh nhân, có thể dùng y- globulin để điều trị.

Hóa dược trị liệu

    Hóa dược và kháng sinh điều trị bệnh do virus phải đạt tiêu chuẩn không gây hại cho tế bào chủ. Hiện nay đang sử dụng một số hóa dược sau:

    Aciclovir: dùng cho điều trị virus Herpes và Varicella – Zoster virus.

    Amantadin: dùng điều trị cúm, á cúm, sốt phát ban. Dẫn chất của Amantadin là Rimantadin điều trị hiệu quả hơn và ít tác dụng phụ.

    Azidothymidin (AZT) dùng để điều trị các bệnh do virus có enzym sao chép ngược như họ Retrovirus, Hepadnavirus.

    Interferon: có các loại interferon a, ß, y – trong đó interferon a được dùng điều trị có hiệu quả cao trong các bệnh do virus, trong thời kỳ đầu nhiễm virus vì tác dụng chủ yếu của interferon ở giai đoạn sao chép mật mã di truyền của virus. Để có hiệu quả điều trị, liều interferon dùng để điều trị phải cao, nên cần theo dõi cẩn thận, tránh tác hại của tác dụng phụ.

GIỚI THIỆU MỘT SỐ VIRUS GÂY BỆNH THỪỜNG GẶP

Poxviridae

    Họ virus Pox tương đối lớn: 230 – 300 nm, đôi khi có thể nhìn được dưới kính hiển vi thường. Họ virus Pox chứa ADN hai sợi, có vỏ bao lipoprotein ngoài lớp vỏ capsid. Poxviridae có cấu trúc hình khối. Các thành viên chính của poxviridae là: đậu mùa (pockenvirus), ngưu đậu (vacxiniavirus), đậu khỉ (affenpocken virus).

Herpesviridae

    Họ virus herpes bao gồm nhiều virus gây bệnh.

Đặc điểm chung:

+ Chứa ADN sợi kép + Capsid đối xứng khối + Có vỏ bao ngoài cấu tạo bởi lipid + Nhậy cảm với ether + Kích thước từ 150 – 160 nm.

Các thành viên chính gây bệnh thường gặp:

+ Herpes – Simplex týp 1, Herpes – Simplex týp 2, gây nhiễm trùng tiềm tàng.

+ Varicella – Zoster virus + Cytomegalovirus (CMV)

+ Epstein-Barr virus (EBV), có quan hệ với các bệnh gây khối u trên người.

Hepadnaviridae

Họ virus này là virus chứa ADN gây viêm gan.

Đặc điểm chính:

+ Chứa ADN sợi kép.

+ Protein capsid được bao quanh bỗi bao ngoài.

+ Virus hình tròn, kích thước 42 – 45 nm.

Thành viên gây bệnh chủ yếu:

+ Virus gây viêm gan B (Hepatitis B virus)

+ Virus liên quan là virus viêm gan denta (Hepatitis delta virus) hay còn gọi là viêm gan D.

Adenoviridae

Adenoviridae có nhiều týp huyết thanh gây bệnh cho người.

Đặc điểm sinh học chính:

+ Chứa ADN sợi kép.

+ Capsid đối xứng khối.

+ Có 252 capsomers.

+ Kích thưốc 70 -90 nm.

    Thành viên gây bệnh chủ yếu: Adeno virus týp 1, 8, 14, 21 gây nhiều hội chứng lâm sàng khác nhau.

    Nhóm virus chủ yếu gây khối u trên người và động vật.

Đọc thêm tại : http://visinhvathoc.blogspot.com/2015/05/virus-co-kha-nang-gay-benh-cho-nguoi.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật là gì, các loại kháng sinh

Virus có khả năng gây bệnh cho người, động vật và cả vi khuẩn

Sản xuất interferon

    Interferon bản chất là protein do tế bào sản xuất ra khi cảm thụ với virus. Interferon có thể ức chế sự hoạt động của ARNm, do vậy nó được sử dụng như một thuốc điều trị không đặc hiệu cho mọi nhiễm trùng do virus.

Sản xuất interferon


VIRUS VÀ BỆNH HỌC

    Virus có khả năng gây bệnh cho người, động vật và cả vi khuẩn. Hiện nay đã tìm thấy trên 500 virus có khả năng gây bệnh cho người. Ngày càng nhiều virus mối được phát hiện, gây những vụ dịch đáng lo ngại. Các bệnh nhiễm trùng do virus có thể là cấp tính, mạn tính, tiềm tàng hoặc nhiễm trùng chậm và cũng có thể gây ung thư. Các hậu quả của sự tương tác virus tế bào đã được trình bày ở mục trên, trong đó các bệnh nhiễm virus cấp hay mạn tính là hậu quả thường gặp nhất.

    Để chẩn đoán được bệnh do virus gây ra, ngoài triệu chứng lâm sàng thì việc chẩn đoán phòng thí nghiệm có giá trị chắc chắn. Dưới đây là các phương pháp chẩn đoán virus trong phòng thí nghiệm:

Chẩn đoán trực tiếp

 Bệnh phẩm, để chẩn đoán trực tiếp

    Để chẩn đoán trực tiếp nghĩa là để phân lập virus hay gây bệnh thực nghiệm trên súc vật, cần hiểu rõ thời gian nhiễm virus, cơ quan mà virus có thể gây bệnh. Nếu là tử thi thì bệnh cảnh lâm sàng gây tử vong. Bệnh phẩm có thể là dịch họng mũi, máu, nước não tủy hay là đoạn ruột, mảnh não, mảnh tủy sông…

    Tất cả mọi bệnh phẩm dùng trong chẩn đoán trực tiếp đều phải bảo quản cẩn thận, tránh làm lây lan, giữ trong dây chuyền lạnh và gửi trong thời gian ngắn nhất: từ một đến vài giờ.

 Phân lập virus

    Các bệnh phẩm không có khả năng bội nhiễm vi khuẩn (máu, nước não tủy, mảnh tổ chức sinh thiết…) thì không cần xử lý kháng sinh – ngược lại, nếu bệnh phẩm có thể bội nhiễm vi khuẩn (nước họng mũi, nước tiểu, phân….) cần xử lý diệt khuẩn và nấm bằng các kháng sinh ở nồng độ thích hợp không ảnh hưởng tới virus. Bệnh phẩm có thể phân lập trên hai loại tế bào:

    Tế bào nguyên phát một lớp: là những tế bào có nguồn gốctừ mô động vật, thực vật, hay côn trùng… được nuôi cấy thành một lớp tế bào trong phòng thí nghiệm để nuôi cấy phân lập virus. Các tế bào nguyên phát chỉ sử dụng một lần, không chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác được. Các tế bào nguyên phát thường dùng là: tê bào thận khỉ, thận bào thai chó, thân bào thai lợn, tế bào xơ bào thai gà, tế bào bào thai người. Tùy chu kỳ nhân lên của virus mà theo dõi thời gian dài hay ngắn để phát hiện tế bào bị tổn thương hay các ổ hoại tử. Để định týp virus người ta dùng kháng thể mẫu để làm phản ứng trung hòa, hay ức chế ngưng kết hồng cầu.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, các loại thuốc kháng sinh

Khi tế bào nhiễm Virus

Tạo hạt virus không hoàn chỉnh (DIP: Defective interfering particle)

    Đó là những hạt virus không có hoặc có không hoàn chỉnh acid nucleic. Do vậy, các hạt DIP không có khả năng gây nhiễm trùng cho tế bào. Những hạt DIP có thể giao thoa (interference) chiếm AN của virus tương ứng để trở nên gây bệnh. Các hạt DIP vẫn mang tính kháng nguyên đặc trưng cho virus.

Virus


Tạo ra tiểu thể

   Các tế bào nhiễm virus có thể xuất hiện các hạt nhở trong nhân hoặc trong bào tương của tế bào. Bản chất các tiểu thể có thể do các hạt virus không giải phóng khởi tế bào, có thể do các thành phần cấu trúc của virus chưa được lắp ráp thành hạt virus mối, cũng có thể là các hạt phản ứng của tế bào khi nhiễm virus. Các tiểu thể này có thể nhuộm soi thấy dưới kính hiển vi quang học và dựa vào đó có thể chẩn đoán gián tiếp sự nhiễm virus trong tế bào. Hình thái tiểu thể nội bào được áp dụng trong chẩn đoán bệnh do virus dại đốivới tế bào thần kinh.

Các hậu quả của sự tích hợp genom virus vào ADN tế bào chủ:

    ADN của virus hoặc ADN trung gian virus tích hợp vào ADN tế bào có thể dẫn tối các hậu quả khác nhau:

    Chuyển thể tế bào (transformation) và gây nên các khối u hoặc ung thư. Nhiều virus có thể gây nên khối u và ung thư ở người hoặc động vật. đều do sự tích hợp genom của chúng vào ADN tế bào, gây ra sự sinh sản thái quá của tế bào. Các loại virus này mang theo gen ung thư hoặc kích hoạt gen ung thư của tế bào hoạt động.

    Làm thay đổi kháng nguyên bềmặt của tế bào. Trên bề mặt tế bào bị ung thư do virus cũng có hiện tượng này.

    Làm thay đổi một số tính chất của tế bào. Do genom của virus tích hợp vào genom của tế bào, làm tế bào thể hiện các tính trạng mới. Thí dụ: Phage E15 tích hợp vào genom của Salmonellalàm Salmonellatrở thành vi khuẩn có khả nàng lên men đường lactose.

    Một số vi khuẩn gây bệnh bằng ngoại độc tô” là do chúng tích hợp genom của prophage. Ví dụ vi khuẩn bạch hầu hay Clostridium botulinumkhi mang prophage sẽ trở nên sinh nhiều ngoại độc tố hơn bình thường.

Tế bào trở thành tế bào tiềm tan.

    Các virus ôn hòa xâm nhập vào tế bào, genom của virus sẽ tích hợp vào nhiễm sắc thể của tế bào rồi phân chia với tế bào. Các tế bào mang gen virus ôn hòa đó, khi gặp những kích thích của các tác nhân sinh học, hóa học và lý học thì các genom của virus ôn hòa trở thành virus độc lực có thể gây ly giải tế bào. Vậy những tế bào tiềm tan có khả năng bị ly giải, người ta còn gọi chúng là tế bào mang provirus (tiền virus).


Đọc thêm tại:

Hậu quả của sụ tương tác virus và tế bào

Virus có AN là ARN nhưng có enzym sao chép ngược

    Enzym sao chép ngược là ADN polymerase phụ thuộc vào ARN, hay còn gọi là reverse transcriptase viết tắt là RT (ví dụ virus HIV). Từ ARN, virus tổng hợp nên ADN trung gian. ADN này tích hợp vào nhiễm sắc thể của tế bào chủ. ADN trung gian là khuôn mẫu để tổng hợp nên ARN virus và đây cũng là mARN để tổng hợp nên các thành phần cấu trúc khác của virus. Nhưng ADN tích hợp cũng có thể nằm im ở dạng provirus và dẫn đến các hậu quả khác.

ARN Virus


 Sự lắp ráp (assembly)

    Nhờ enzym cấu trúc của virus hoặcenzym của tế bào cảm thụ giúp cho các thành phần cấu trúc của virus được lắp ráp theo khuôn mẫu của virus gây bệnh tạo thành những hạt virus mới.

Sự giải phóng các hạt virus ra khỏi tế bào

    Virus có thể phá vỡ vách tế bào sau vài giờ tới vài ngày tuỳ chu kỳ nhân lên của từng virus để giải phóng hàng loạt virus ra khởi tế bào để tiếp tục một chu kỳ nhân lên mối trong tế bào cảm thụ. Virus cũng có thể được giải phóng theo cách nẩy chồi từng hạt virus ra khởi tế bào sau chu kỳ nhân lên.

HẬU QUẢ CỦA SỤ TUƠNG TÁC VIRUS VÀ TỂ BÀO

Huỷ hoại tế bào chủ

     Sau khi virus xâm nhập và nhân lên trong tế bào thì hầu hết các tế bào bị phá hủy. Người ta có thể đánh giá sự phá hủy tế bào bằng hiệu quả gây bệnh cho tê bào (cytopathic effect = CPE) hoặc các ổ tế bào bị hoại tử. Mỗi ổ tê bào bị hoại tử đó được gọi là một đơn vị plaque (Plaque forming unit: PFU). Có những tế bào bị nhiễm virus chưa đến mức bị chết, nhưng chức năng của tế bào này đã bị thay đổi.

    Biểu hiện của sự nhiễm virus thành các bệnh nhiễm trùng cấp hoặc mạn tính là do sự huỷ hoại tế bào của virus.

Sự sai lạc nhiễm sắc thể của tế bào

    Sau khi virus nhân lên bên trong tê bào, nhiễm sắc thể của tế bào có thể bị gẫy, bị phân mảnh hoặc có sự sắp xếp lại và gây ra các hậu quả như:

Dị tật bẩm sinh, thai chết lưu

    Sự sai lạc nhiễm sắc thể thường gây những tai biến đặc biệt ở phụ nữ có thai trong những tháng đầu, chu kỳ gây bệnh của virus trên phụ nữ có thai có thể biểu hiện bởi dị tật thai, hoặc thai chết lưu.

Sinh khối u và ung thư

    Người ta gây khối u thực nghiệm do virus trên động vật. Cơ chê gây khôi u có thể do virus làm thay đổi kháng nguyên bề mặt của tế bào, làm mất khả năng ức chế do tiếp xúc khi tế bào sinh sản hoặc kích hoạt gen ung thư.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi sinh vật, các nhóm kháng sinh

Sự nhân lên của virus trong các tế bào cảm thụ

SỰ NHÂN LÊN CỦA VIRUS TRONG CÁC TẾ BÀO CẢM THỤ


SỰ NHÂN LÊN CỦA VIRUS


     Virus chỉ có thể nhân lên trong tế bào cảm thụ. Nhờ hoạt động của tế bào mà virus tổng hợp được các thành phần cấu trúc và tạo ra các hạt virus mới. Quá trình nhân lên của virus trong tế bào có thể chia thành 5 giai đoạn:

Sự hấp phụ của virus trên bề mặt tế bào

    Sự hấp phụ được thực hiện nhờ sự vận chuyển của virus trong các dịch gian bào giúp virus tìm tối tế bào cảm thụ.

    Các thụ thể (receptor) đặc hiệu trên bề mặt tế bào cảm thụ sẽ cho các vị trí cấu trúc đặc hiệu trên bề mặt hạt virus gắn vào thụ thể. Ví dụ: gpl20 của HIV hấp phụ vào CD4 của các tế bào cảm thụ.

Sự xâm nhập của virus vào trong tế bào

     Sự xâm nhập thành phần quan trọng nhất là acid nucleic theo các cơ chế sau:

-  Nhờ enzym cởi vở của tế bào giúp virus cởi vở, giải phóng acid nucleic nhờ enzym decapsidase.

-   Virus qua màng tế bào qua cơ chế ẩm bào hoặc nhờ phần vở capsid co bóp, bơm acid nucleic qua vách tế bào, xâm nhập vào trong tế bào cảm thụ.

Sự giải phóng lõi của virus

    Sau khi xâm nhập, acid nucleic của virus và có thể cả một sốenzym (nếu có) được giải phóng ra khởi vở capsid nhờ các enzym phân huỷ của tế bào. Bưốc này còn được gọi là “giai đoạn cởi áo”.

Sự tổng hợp các thành phần cấu trúc của virus

    Đây là giai đoạn phức tạp nhất của quá trình nhân lên của virus và nó phụ thuộc loại AN của virus. Nhưng kết quả cuối cùng là để tổng hợp được AN và các thành phần cấu trúc khác của virus. Dưối đây là ví dụ về ba loại virus có hai loại AN khác nhau:

Virus có AN là ADN hai sợi

- Từ khuôn mẫu ADN của virus tổng hợp nên mARN, phục vụ cho tổng hợp nên ADN polymerase và ADN mới.

-   Từ ADN mói được tổng hợp, mARN được tổng hợp để tạo thành protein capsid và các thành phần cấu trúc khác của virus.

Virus có AN là ARN một sợi dương

    ARN của virus đồng thòi là mARN để tổng hợp nên ARN polymerase và ARN mới của virus, mARN này cũng được dùng để tổng hợp nên capsid.

Virus có ARN một sợi âm

    Virus loại này tổng hợp nên sợi bổ sung (sợi dương) làm mARN để tổng hợp nên các thành phần cấu trúc của virus.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: vi khuẩn là gì, các thuốc kháng sinh