Virus có nhiều hình thể khác nhau: hình cầu, hình khối, hình sợi, hình que, hình chùy, hình khôi phức tạp. Hình thể mỗi loại virus rất khác nhau nhưng luôn ổn định đối với từng loại virus. Tùy theo cách sắp xếp của acid nucleic và capsid mà virus được chia làm hai loại đốì xứng:
- Đối xứng hình xoắn ốc: acid nucleic của virus và các capsomer được sắp xếp dọc theo hình lò xo đều hay không đều.
- Đối xứng hình khối: khi các capsomer của virus được sắp xếp thành các hình khối cầu đa diện.
- Một sô virus có thể sắp xếp đối xứng khối và đối xứng xoắn trên từng phần của virus. Cách đối xứng này là đối xứng phức tạp.
MỘT VÀI KHÁI NIỆM THUẬT NGỮ QUAN TRỌNG
Virion: là một hạt virus hoàn chỉnh có cấu trúc cơ bản, một sô có thêm những cấu trúc riêng.
Virus thiếu hụt (Defective virus)
Là những hạt virus khiếm khuyết một vài thành phần cấu trúc trong quá trình sao chép. Những hạt virus thiếu hụt này có thể giao thoa với các hạt virus bình thưòng (virion) để tạo những hạt virus hoàn chỉnh.
Giả virus (Pseudovirion)
Trong quá trình trùng hợp các capsid của virus, đôi khi lại bao bọc acid nucleic của tế bào chủ thay vì bao quanh AN của virus. Những hạt giả virus này khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử chúng giống hệt các virion bình thường, nhưng chúng không có khả năng trùng hợp lại các hạt virus mới có acid nucleic “nhầm lẫn” trên.
PHÂN LOẠI VIRUS
Có nhiều cách để phân loại. Theo hình thể, theo tầm quan trọng hoặc triệu chứng lâm sàng. Hiện nay có hai cách phân loại còn được sử dụng:
Phân loại theo triệu chứng học
Cách phân loại cổ điển theo khả năng gây bệnh của virus, nó thuận lợi cho lâm sàng nhưng thường không chính xác, bởi vì một virus có thể gây ra nhiều bệnh cảnh lâm sàng, ngược lại một bệnh cảnh lâm sàng cũng có thể do nhiều loại virus gây nên.
Virus gây bệnh phổ biến:virus đi qua đường máu gây phát ban ngoài da: bệnh đậu mùa, đậu bò, bệnh sởi, rubella, sốt vàng, sốt xuất huyết, bệnh do virus đương ruột.
Bệnh hệ thống thần kinh: bệnh bại liệt, bệnh do Coxsackie, ECHO, dại, viêm não, Herpes simplex, sởi, đậu, nhiễm trùng chậm.
Bệnh ở đường hô hấp: cúm, á cúm, virus hợp bào, adenovirus.
Virus gây bệnh khu trú ở da, cơ, niêm mac:Herpes simplex týp 1 gây bệnh quanh niêm mạc miệng, týp 2 gây bệnh ở niêm mạc đường sinh dục, Herpangina, zona.
Virus gảy bênh ở mắt:adenovirus, Newcastle virus, Herpes virus, đau mắt đở thành dịch do Enterovirus týp 70.
Virus gây bênh ở gan:virus gây viêm gan A, B, c, D, E; Herpes virus, Rubella virus.
Virus gây viêm da dày, ruôt: Rotavirus, Norwalkvirus.
Virus lây lan qua đường tình dục:HIV, Cytomegalovừus, Papillioma virus, Herpes virus, HBV. Cách phân loại này dễ nhớ và bước đầu chỉ được đường lây truyền của virus nên có thể phòng bệnh và xử lý chất thải hợp lý. Tuy vậy một virus có thể gây nhiều bệnh cảnh lâm sàng, một bệnh cảnh lâm sàng có thể do nhiều virus gây ra, do vậy cách phân loại này là không chính xác.